Kèm theo Công văn số 35 - VHTT, ngày 204/2020 của Phòng văn hóa và Thông tin
I. KHÁI
QUÁT THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1.
Thân thế và thuở thiếu thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi ra đi tìm đường
cứu nước
Chủ
tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên là
Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày
19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự,
tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là
Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan.
Từ
lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống trong sự chăm sóc đầy tình thương
yêu của gia đình, đặc biệt là ông bà ngoại. Năm 1895, Nguyễn Sinh
Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu qua
đời, Người theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn Tất Thành,
tích cực học chữ Hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều. Năm
1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, thời gian đầu học trường
Pháp - Việt, sau học trường Quốc học Huế. Tháng 6/1909, Nguyễn Tất Thành
theo cha vào Bình Định, tháng 8/1910 vào Phan Thiết, Bình Thuận làm
giáo viên trường Dục Thanh. Tháng 02/1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn.
2. Quá
trình hoạt động cách mạng
2.1.
Giai đoạn1911 - 1920
Sinh
ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một làng quê giàu truyền
thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, Người đã
sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho
nước. Ngày 5/6/1911 với tên gọi mới là Văn Ba, Người đã lên tàu
Amiran Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây (Pháp).
Từ
năm 1912 -1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm
1913, Người đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động, cuối năm 1917 Người mới trở
lại nước Pháp.
Đầu
năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng 6/1919 thay mặt Hội
những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi bản yêu sách gồm 08 điểm (ký tên
Nguyễn Ái Quốc) tới Hội nghị các nước đế quốc họp ở Véc-xây (Pháp), đòi
chính phủ các nước họp Hội nghị phải
thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Tháng
7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc
địa.
Tháng
12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp. Tại đây Người đã bỏ
phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành
người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
2.2.
Giai đoạn 1921 - 1930
Từ
năm 1921 đến tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt động: thành lập
Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và lần thứ II của
Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua, làm Chủ nhiệm kiêm chủ
bút Báo Người cùng khổ...
Ngày
13/6/1923, Người rời nước Pháp đi Đức và đến thành phố Xanhpêtécbua (Liên Xô)
ngày 30/6/1923.
Từ
tháng 7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong
trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa.
Người hoạt động trong Quốc tế Nông dân; tham dự Đại hội II Quốc tế Công hội đỏ,
Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; tiếp tục viết nhiều sách báo tuyên truyền
cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp; học tập tại trường
Đại học phương Đông; tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản và được chỉ
định là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản.
Tháng
11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6/1925,
Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở các lớp huấn
luyện cán bộ, ra Báo Thanh niên (1925), tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam
nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp và
in thành tác phẩm Đường Cách mệnh, được xuất bản vào năm 1927.
Hè
năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi Liên Xô, sau đó đi Đức (tháng
11/1927) rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội đồng liên
đoàn chống đế quốc (tháng 12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy Sỹ, sang Italia.
Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại Trung Quốc vào
cuối năm 1929.
Từ
ngày 06/1 đến ngày 07/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Nguyễn
Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2.3.
Giai đoạn 1930 - 1945
Từ
năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn
chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Tháng 6/1931, Người bị nhà cầm
quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932, Người được trả tự do, sau đó đến
Liên Xô học tại trường Quốc tế Lênin.
Tháng
10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An (Trung Quốc) làm việc tại Bộ chỉ huy Bát
lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về nước trực tiếp chỉ
đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày
28/1/1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về nước
(tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng).
Từ
ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị
lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Khuổi Nặm (Pắc
Bó, Cao Bằng). Hội nghị đã xác định đường lối đấu tranh giải
phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam Độc
lập, tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng
8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân
hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc bắt
liên lạc với Đồng minh, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến
trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới
Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).
Trong thời gian bị giam giữ, Người viết cuốn Nhật ký trong tù. Tháng 9/1943, Người
được thả tự do.
Tháng
9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh chỉ
thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Tháng
5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây
theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã
họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng
dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Tháng
8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành
chính quyền thắng lợi.
Ngày
02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người đọc Tuyên ngôn độc lập, khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam).
2.4.
Giai đoạn 1945 - 1954
Những
năm 1945 - 1946, Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo
vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đối phó với thù trong, giặc ngoài, đưa cách
mạng Việt Nam vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”; tổ chức Tổng tuyển cử
trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt
Nam. Quốc hội khóa I (1946) đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Ngày
02/03/1946, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập do Hồ Chí Minh làm
Chủ tịch.
Ngày
03/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội giao nhiệm vụ thành lập Chính
phủ mới do Người làm Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính phủ (từ tháng 11/1946 -
đến tháng 9/1955) và kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Đại
hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân Việt Nam đã giành thắng
lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu, đưa miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.5.
Giai đoạn 1954 - 1969
Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ
được ký kết. Quân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn
giải phóng. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ,
sau 2 năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ
với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ
chức, chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến
miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại
bước vào cuộc chiến đấu chống xâm lược mới. Trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Tháng
10 /1956, tại Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng lần thứ X (khóa II),
Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức Chủ tịch Đảng.
Tại
Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), Người được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III bầu Người
làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Cùng
với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối đúng
đắn, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc cải tạo, xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi; đặt nền móng và không ngừng vun đắp tình
hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Lao
động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) với các Đảng Cộng sản và phong
trào công nhân quốc tế.
Ngày
02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là tổn thất vô cùng lớn lao. Đồng
bào và chiến sĩ cả nước ta thương nhớ Người khôn xiết. Sự ra đi của Người
để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam và
tình đoàn kết thân ái với nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hòa bình, tiến bộ xã
hội trên thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy
sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc
đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương
sáng ngời cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam học tập và noi theo.
Tên
tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với non sông đất nước,
sống mãi trong lòng mỗi chúng ta.
II.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH – ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, LÃNH TỤ THIÊN TÀI CỦA ĐẢNG
VÀ NHÂN DÂN, NHÀ VĂN HÓA KIỆT XUẤT CỦA VIỆT NAM, NGƯỜI CHIẾN SĨ LỖI LẠC CỦA
PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ
1. Chủ
tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và
lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất nước. Nhiều cuộc khởi
nghĩa, đấu tranh anh dũng, bất khuất giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ
quốc đều lần lượt thất bại, phong trào cứu nước của nhân dân ta đứng trước
khủng hoảng sâu sắc về đường lối. Với khát vọng cháy bỏng giành độc
lập, tự do cho dân, cho nước, Người đã bôn ba khắp năm châu bốn
biển, vừa lao động, học tập, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm
các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Người hiểu rõ cội nguồn những
khổ đau của nhân dân lao động là ở sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế
quốc và hình thành nên ý thức giai cấp rõ rệt. Người đã đến với Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cách mạng khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin; bằng thiên tài trí tuệ, nhận thức đúng xu thế phát triển tất
yếu của loài người và tính chất mới của thời đại mở ra từ Cách mạng tháng Mười
Nga, Người đã tìm thấy ở đó những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng
dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Với sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam do Người sáng lập vào năm 1930, cùng Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con
đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ bản được xác
định. Điều này không chỉ khai thông bế tắc trong đường lối giải phóng dân
tộc, mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các
vấn đề trọng yếu của cách mạng Việt Nam.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam
đã gắn kết thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc, làm nên
thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á. Trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 02/9/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân, đồng
bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập
và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”.
Ngay
sau khi giành độc lập, chính quyền cách mạng non trẻ của ta đứng trước tình thế
vô cùng khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng đã sáng suốt đề ra đường
lối đúng đắn, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh, bảo vệ Đảng và
giữ vững chính quyền cách mạng. Trên cơ sở đường lối kháng
chiến “toàn dân”, “toàn diện”, “trường kỳ”, “dựa vào sức
mình là chính” phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân
tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân
dân lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là
thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực
dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), chấm dứt cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Với
tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; thực hiện Di
chúc thiêng liêng của Người; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của
Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc
Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đưa
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đi
theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; trong
bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vận dụng phát
triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
không ngừng nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc
tế. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch của đất nước sau gần
35 năm đổi mới và hội nhập quốc
tế là minh chứng sinh động khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt
của Đảng; khẳng định sự đúng đắn về đường lối cách mạng
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; và chính trong quá trình
vận động của cách mạng, tư tưởng, đường lối đó ngày càng được bổ sung, phát
triển và hoàn thiện, trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, Người
là tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng, hết lòng, hết
sức cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam,
xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tổ chức và huấn luyện các lực
lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam, Người đặt nền tảng quan hệ với các dân tộc trên thế
giới. Người đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng
của Đảng, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam giành
được thắng lợi ngày càng to lớn hơn. Nước ta từ một xứ thuộc địa phong kiến,
nghèo nàn, lạc hậu đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập
trung bình; văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân không ngừng được nâng cao; công tác xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị từng bước hoàn thiện; khối đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh, độc
lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng
cao trên trường quốc tế. Đúng như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng nói: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín như ngày nay”.
Đất
nước phát triển, nhân dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, đã chứng tỏ,
tư tưởng, sự nghiệp, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản
vô giá, là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta vững bước đi tới tương lai. Là Lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta nhưng Chủ tịch
Hồ Chí không bao giờ coi mình đứng cao hơn nhân dân, không để ai sùng bái cá
nhân mình, chỉ tâm niệm suốt đời là người phục vụ trung thành và tận tụy của
nhân dân, “như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Ở Người sự
vĩ đại và cao cả được thể hiện thông qua những điều hết sức đời thường và giản
dị. Đó không chỉ là biểu hiện của đạo đức, lối sống mà còn là phong cách quần
chúng, trọng dân và vì dân. Sự giản dị của Hồ Chí Minh đã trở thành một biểu
tượng mang tầm giá trị văn hóa, nhưng lại rất gần gũi với cuộc sống của nhân
dân, khiến ai cũng có thể học tập và noi theo.
Cuộc đời của Người là biểu
tượng cao đẹp về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng
yêu nước, yêu nhân dân tha thiết, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Người để lại cho chúng ta một tấm lòng nhân hậu,
một tình cảm chan chứa yêu thương, vì nước, vì dân, vì Đảng; một trí tuệ anh
minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về cách
sống, cách nghĩ, cách viết, cách nói, cách làm việc.
3. Chủ
tịch Hồ Chí Minh - Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam
Sự
nghiệp văn hóa lớn nhất, quan trọng nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
đã tìm con đường cứu nước đúng đắn và lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân.
Sự nghiệp giải phóng dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đem
lại địa vị xứng đáng cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Không chỉ
vậy, sự nghiệp này còn có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hóa thế giới, đã chỉ
ra cho nhân dân các nước thuộc địa con đường đứng lên đập tan xiềng xích nô lệ,
giành độc lập, tự do cho đất nước mình, từ đó góp phần vào việc xóa bỏ chế độ
thuộc địa trên thế giới.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh không chỉ góp phần tạo ra một chế độ mới, một thời đại
mới mà còn tạo ra một nền văn hóa mới trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt
Nam, góp phần to lớn vào sự phát triển chung của văn hóa nhân loại.
Những
năm tháng hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chọn lọc truyền
thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, trong đó đặc biệt là
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin phát
triển thành những giá trị văn
hóa mới - văn hóa Hồ Chí Minh. Tư tưởng về văn hóa của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã thấm đậm trong đời sống xã hội. Người luôn nhận rõ vị trí và ý
nghĩa đặc biệt quan trọng của văn hóa. Người chỉ rõ: “Văn hóa soi đường
quốc dân đi”. Cái cốt lõi trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là lòng yêu
nước, thương dân, thương yêu con người, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Người đề cao lý tưởng cứu nước, cứu dân, “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên
hết”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Với
những cống hiến xuất sắc cho dân tộc Việt Nam và cho nhân loại tiến
bộ trên thế giới, năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
Hợp quốc (UNESCO) ra Nghị quyết 24C/1865 nhân kỷ niệm 100 năm Ngày
sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990) tôn vinh Người là Anh hùng giải
phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Đây là
vinh dự tự hào vô cùng lớn lao của Đảng và Nhân dân ta.
4.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu
tượng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Ngay từ khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, ánh
sáng chân lý của thời đại, tấm lòng của Người luôn hướng về nhân dân các dân
tộc bị áp bức, chiến đấu không mệt mỏi vì hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc.
Người đã hết lòng, hết sức xây dựng sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng Cộng sản
anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong sáng, không ngừng vun đắp quan hệ gắn bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đông
Dương, các nước láng giềng. Người đã có những cống hiến xuất sắc về lý luận
cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin:
Giành độc lập để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người đã tìm ra các giải
pháp đấu tranh giải phóng loài người. Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với
thời đại là từ xác định đúng đắn con đường cứu nước cho dân tộc đến việc xác
định được một con đường, một hướng đi và một phương pháp để thức tỉnh hàng trăm
triệu người bị áp bức trong thuộc địa lạc hậu.
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng
đắn vấn đề “làm thế nào để giải quyết các dân tộc thuộc địa”. Hồ Chí Minh đã
hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, Người
đã làm sống lại những giá trị tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp cứu nước của Người đã xóa bỏ tất cả những
tủi nhục nô lệ đè nặng trên vai
dân tộc ta. Trong gần một thế kỷ,
lần đầu tiên trong lịch sử, dưới sự tổ chức và rèn luyện của Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta
xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi cả nước. Những thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam đã cổ vũ các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới đấu
tranh vì mục tiêu cao cả: Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ của
con người. Chính vì vậy mà không
chỉ nhân dân Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhân dân, bạn bè thế giới cũng rất yêu quý
Người, dành cho Người những tình cảm trân trọng và tốt đẹp nhất. Bạn bè
năm châu khâm phục và coi Hồ Chí Minh là “Lãnh tụ của thế giới thứ ba”,
“...cuộc chiến đấu của Người sẽ là kim chỉ nam cho tất cả các dân tộc đang
đấu tranh, cho thanh niên và cho các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới” (Bumêđiên,
nguyên Chủ tịch Hội đồng Cách mạng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa
dân chủ và nhân dân Angiêri); “Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cổ vũ đối
với tất cả chiến sỹ đấu tranh cho tự do” (trích điện văn của Chủ tịch Ban lãnh đạo phong
trào nhân dân giải phóng Ăng gô la Agôxtinhônêtô); “Tên tuổi của Đồng chí
Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả nhất và
những ước mơ cao quý nhất của nhân loại” (trích điện văn của Ủy ban toàn
quốc Đảng Cộng sản Mỹ).
III. HỌC
TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau một gia tài
đồ sộ, một di sản hết sức quý báu, đó là tư tưởng, đạo đức và phong
cách Hồ Chí Minh.
1.1. Tư
tưởng Hồ Chí Minh
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hoá nhân
loại.
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của
khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước
thật sự của dân, do dân và vì dân; về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh
tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân,...
- Tư
tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá, mãi mãi là ngọn đuốc soi đường
cho cuộc đấu tranh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.
1.2.
Đạo đức Hồ Chí Minh
-
Tấm gương đạo đức phong cách Hồ Chí Minh vô cùng trong sáng và cao thượng, kết
tinh của tinh hoa văn hóa Việt Nam.
- Những nội dung
chủ yếu của đạo đức Hồ Chí Minh.
Một là, trung với nước, hiếu
với dân: Trung với nước, hiếu với dân là điều chủ chốt của đạo đức
cách mạng. Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc và làm cho đất nước “sánh vai với
các cường quốc năm châu”. Hiếu với dân phải gắn bó với dân, gần dân, dựa
vào dân, lấy dân làm gốc; phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan
tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và
quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Hai là, yêu thương con người,
sống có nghĩa, có tình: Yêu thương con người là phải
quan tâm đến những người lao động bình thường, chiếm số đông trong xã hội. Yêu
thương con người là phải làm mọi việc để vì con người, vì mục tiêu “ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, dám hy sinh, dám dấn thân
để đấu tranh giải phóng con người; yêu thương con người là phải tin vào
con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc, với người thì độ lượng,
rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm,
khuyết điểm; yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống
cao đẹp hơn; yêu thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê bình
chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư: Cần, kiệm, liêm, chính là
bốn đức tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa,
đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
+ Cần là lao động cần cù,
siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao
động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm.
+ Kiệm là tiết kiệm sức
lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân
mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; không xa xỉ, không hoang phí, không
bừa bãi, không phô trương, hình thức...
+ Liêm là luôn tôn trọng
giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước,
của nhân dân; không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung
sướng, không tham tâng bốc mình...
+ Chính là không tà, là
thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người
không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành,
khiêm tốn, đoàn kết.
+ Chí công vô tư là khi
làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi
sau, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
+ Cần, kiệm, liêm, chính
có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ
dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân,
vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Bốn là, có tinh thần quốc tế
trong sáng: Đoàn kết quốc tế trong sáng
trước hết là đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung: Đấu
tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; đó là tình đoàn kết quốc
tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung “bốn phương
vô sản đều là anh em”. Sau đó, đoàn kết quốc tế trong sáng còn là đoàn kết
quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn
đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Nguyên tắc xây dựng và thực
hành đạo đức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện ở ba điểm
sau: Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức; xây đi đôi với
chống; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
1.3. Phong cách Hồ Chí Minh
- Từ
Đại hội V (1981) trở về trước, Đảng ta thường dùng khái niệm “tác phong” để nói
về “tác phong Hồ Chủ tịch”. Từ Đại hội VI (1986), hai chữ “tác phong” được thay
bằng khái niệm “phong cách” trong cụm từ “tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh” để có thể nói về những đặc trưng đa dạng, phong phú khác trong hoạt động
của Người.
Phong
cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng giá trị, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với nhân cách trí tuệ lỗi
lạc, đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh, với tư cách là một vĩ nhân, một
nhà văn hóa kiệt xuất. Đó là một phong cách vừa dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa
học vừa cách mạng, vừa cao cả vừa thiết thực. Phong cách Hồ Chí Minh được
thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh
thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ:
- Những nội
dung chủ yếu của phong cách Hồ Chí Minh
+ Phong cách tư duy: Phong
cách tư duy khoa học, cách mạng và hiện đại; phong cách tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo. Đó là phong cách tư duy không giáo điều, rập khuôn, không vay mượn
dập khuôn của người khác, hết sức tránh lối cũ, đường mòn, tự mình tìm tòi, suy
nghĩ, truy đến tận cùng bản chất của sự vật, hiện tượng để tìm ra chân lý, phù
hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn; phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển,
có lý có tình.
+ Phong cách làm
việc: Khoa học, có kế hoạch, đổi mới, sáng tạo, không chấp
nhận lối cũ, bảo thủ.
+ Phong cách lãnh đạo: Tuân
thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách; luôn nêu gương.
+ Phong cách diễn đạt: Cách
nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực. Diễn đạt ngắn gọn, cô đọng,
hàm súc, trong sáng và sinh động, có lượng thông tin cao, sinh động, gần gũi
với cách nghĩ của quần chúng, gắn với những hình ảnh cụ thể, luôn
luôn linh hoạt, nhất quán mà đa dạng.
+ Phong cách ứng xử: Khiêm
tốn, nhã nhặn, lịch thiệp, không bao giờ đặt mình cao hơn người khác, mà
trái lại luôn hòa nhã, quan tâm chu đáo đến những người chung quanh, chân
tình, nồng hậu, tự nhiên, linh hoạt, chủ động, vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa mọi
khoảng cách.
+ Phong cách sinh
hoạt: Phong cách sống cần kiệm, liêm chính, tôn trọng quy luật tự nhiên,
gắn bó với thiên nhiên.
2.
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh
2.1.
Tuyệt đối trung thành với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu
lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Đảng
ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và
thực tiễn đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hiện
nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển
bùng nổ của Internet, các mạng xã hội toàn cầu và những vấn đề nảy sinh từ mặt
trái của kinh tế thị trường; các thế lực thù địch, phản động có những chiêu
thức, thủ đoạn mới chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
cũng còn những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận
thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.2.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi
to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hơn 3 thập niên
qua. Thông qua xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng ta trưởng thành hơn
trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, ngày càng nâng cao vai trò, vị thế cầm quyền
và năng lực lãnh đạo, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân,
khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng
Đảng và quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về xây dựng Đảng đã khẳng định, phải
tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh
mẽ, nhằm tạo ra một bước chuyển biến rõ rệt hơn nữa trên các mặt, ngăn chặn và
đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách
mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ;
tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta.
Phương
hướng chung của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải tiếp tục
phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và
tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ; tăng cường mối quan hệ mật thiết
với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm
quyền của Đảng.
2.3.
Tiếp tục phát huy ý chí, khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp
với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững
đất nước
Sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn luôn là một trong những nguồn lực
quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, phát triển đất
nước.
Để
thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững, cấp ủy
đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp cần phải quan tâm, chăm lo bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc,
khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; bồi dưỡng sức dân;
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút trọng dụng nhân tài; thúc đẩy đổi
mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học – công nghệ;
xây dựng và phát huy giá trị, sức mạnh con người Việt Nam; quản lý phát triển
xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; tăng cường quốc phòng, an ninh bảo đảm vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
2.4. Tiếp
tục thực hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII);
đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước góp phần tổ chức thành công đại hội
đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
Cấp
ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp tiếp tục đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ
Chính trị, coi đó là công việc quan trọng cần triển khai thường xuyên; không
ngừng nâng cao nhận thức cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý nghĩa,
tác dụng của phong trào thi đua yêu nước; vận dụng sáng tạo và thực hiện có
hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước; kịp thời lựa chọn, phát
hiện, bồi dưỡng các mô hình điểm, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, thiết thực
trong các phong trào thi đua ở địa bàn cơ sở; các gương người tốt, việc, tốt,
nhân tố mới trong các phong trào thi đua yêu nước để tuyên truyền động viên, cổ
vũ và nhân rộng, tạo sự lan tỏa trong cộng đồng... Qua đó, góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; tổ chức
thành công đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 tiến tới Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
BAN
TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG